Định kiến là một vấn đề được nhiều nhà tâm lý học quan tâm. Xung quanh vấn đề này có nhiều định nghĩa và quan điểm khác nhau:
Các
nhà tâm lý học Xô viết cho rằng: “ Định kiến xã hội là quan niệm đơn
giản, máy móc, thường không đúng sự thật thể hiện trong nhận thức hàng
ngày về một khách thể xã hội nào đó (một cá nhân, một nhóm hoặc một cộng
đồng xã hội…). Như vậy, theo các nhà tâm lý học Xô Viết thì định kiến
mang tính tiêu cực trong ứng xử đối với khách thể
Theo J.P.Chaplin: “
Định kiến là thái độ tích cực hoặc tiêu cực được hình thành trước trên
cơ sở những dấu hiệu rõ ràng trong đó đặc biệt là yếu tố cảm xúc” Hay: “
Định kiến là lòng tin hoặc cách nhìn thường là không thiện cảm dẫn đến
cho chủ thể một cách ứng xử hoặc cách nghĩ như vậy đối với những người
khác”.
G.W Allport cho rằng: “ Định kiến được xem như thái độ có tính ác cảm và thù địch đối với các thành viên của nhóm”.
Theo
Kramer và Mann: “ Định kiến là thái độ – một sự biểu hiện của trí tuệ
cũng như thái độ khác. Định kiến là một thành tố của nhận thức, tức là
chúng ta hiểu biết về con người nhờ sự tưởng tượng hoặc bức tranh tinh
thần. Định kiến là một thành tố có ảnh hưởng nghĩa là nó khơi dậy tình
cảm và cảm xúc của con người. định kiến là hành vi, nghĩa là chủ thể
hướng hoặc thực hiện hành động của mình đối với người bị định kiến.”.
* Như vậy, định kiến là thái độ mang tính tiêu cực, bất hợp lý đối với nhóm hoặc các thành viên với nhóm.
*******************************************************
(Tamly)
- Định kiến là một trong những hiện tượng tâm lý xã hội đặc trưng của
nhóm, phản ánh đời sống tâm lý phức tạp trong mối quan hệ ứng xử và giao
tiếp của con người. Ở bất kỳ đâu, trong bất kỳ mối tương tác nào ta
cũng có thể bắt gặp định kiến. Định kiến giữa cá nhân này với cá nhân
khác, giữa nhóm người này với nhóm người khác, giữa dân tộc này với dân
tộc khác...
Sự xuất hiện định kiến sẽ làm tăng thêm mối quan
hệ không thân thiện giữa các cá nhân với nhau, giữa các nhóm với nhau,
giữa các dân tộc với nhau,... Đỉnh cao của sự phát triển định kiến là
lòng hận thù và rất có nguy cơ dẫn tới mâu thuẫn giữa các cá nhân, giữa
các nhóm, giữa các dân tộc, xung đột chủng tộc và chiến tranh có thể xảy
ra.
Trong cuộc sống hàng ngày, định kiến cũng thường xuyên xuất
hiện. Chẳng hạn, tư tưởng trọng nam khinh nữ vẫn còn là hiện tượng phổ
biến trong quan niệm của những người dân Việt Nam. Hơn thế nữa, một loạt
các hiện tượng xã hội đang đặt ra mà chúng ta cần phải giải quyết, như
những định kiến nặng nề đối với những bệnh nhân mắc căn bệnh hiểm nghèo
HIV/AIDS, những người sau cai nghiện ma tuý, những người mãn hạn tù trở
về với gia đình, với cộng đồng...
Vì vậy, việc nghiên cứu định
kiến và vấn đề làm thế nào để giảm tải định kiến là một vấn đề cần quan
tâm chú ý trong các nghiên cứu tâm lý học xã hội hiện nay. Trong phạm vi
bài viết này chúng tôi xin đề cập đến một số quan niệm khác nhau về
định kiến và nguồn gốc nảy sinh định kiến.
1. Định kiến là gì?
Theo
J.P Chaplin định kiến là thái độ tích cực hoặc tiêu cực được hình thành
trên cơ sở của các yếu tố cảm xúc, là niềm tin một cách không thiện cảm
làm cho chủ thể có cách nghĩ hoặc cách ứng xử tương tự đối với người
khác.
Theo Kramer (1949) và Mann (1959) định kiến là một thành tố
của nhận thức, tình cảm, hành vi. Nó là biểu hiện của trí tuệ, nó khơi
dậy tình cảm hoặc xúc cảm của con người, là sự thực thi những suy nghĩ
của mình về người khác bằng những hành vi cụ thể.
Fischer cho
rằng định kiến có thể được định nghĩa như những thái độ của cá nhân bao
hàm sự đánh giá một chiều. Sự đánh giá đó thường là tiêu cực đối với cá
nhân hoặc nhóm tuỳ theo sự quy thuộc xã hội riêng của họ. Nói cách khác
định kiến là một loại phân biệt đối xử. Định kiến bao gồm hai thành tố
chính đó là nhận thức và ứng xử.
Quan niệm khác lại cho rằng định
kiến là những thái độ tiêu cực đối với một nhóm người hay một thành
viên của nhóm. Nó bao gồm sự đánh giá một cách vội vàng về khách thể khi
họ tiếp xúc. Định kiến có ảnh hưởng xấu đến mối quan hệ giữa các cá
nhân, giữa các nhóm và giữa cá nhân với nhóm. Trong quan niệm này người
ta cho rằng định kiến là sự kết hợp của ba yếu tố: 1.Sự tác động của các
yếu tố cảm xúc (affects); 2.Xu hướng hành vi (behavior tendency); 3.Sự
nhận thức của cá nhân (cognition). Người ta gọi đó là ABC của thái độ.
Một người có định kiến trước hết không có cảm tình với khách thể, sau đó
có sự tin tưởng một cách mù quáng vào cảm nhận đó và dẫn tới có khuynh
hướng phân biệt đối xử.
Như vậy, tuy có rất nhiều quan điểm khác
nhau xung quanh vấn đề này, nhưng suy cho đến cùng các tác giả đều có
những nhìn nhận một cách cơ bản giống nhau ở một số điểm. Hầu hết họ đều
muốn nhấn mạnh đến vấn đề nhận thức một cách thiếu căn cứ, thiếu cơ sở
khoa học của cá nhân trước một cá nhân khác hay trước một sự kiện, một
hiện tượng nào đó.
Trên cơ sở một số quan niệm trên có thể nêu ra
định nghĩa định kiến xã hội như sau, định kiến xã hội là những thái độ
tiêu cực được nảy sinh trên cơ sở của những cảm nhận không có cơ sở chắc
chắn, những đặc điểm bề ngoài, những ấn tượng xấu ...về một cá nhân, về
một nhóm người hay một cộng đồng người nào đó.
2. Nguồn gốc xã hội của định kiến
Định kiến bắt nguồn từ sự bất bình đẳng xã hội
Định
kiến là một kiểu hợp lý hoá sự bất bình đẳng xã hội. Tại sao như vậy?
Trong bất cứ xã hội nào cũng tồn tại những địa vị xã hội không ngang
bằng. Địa vị xã hội không ngang bằng đó đã làm nảy sinh định kiến. Trong
cấu trúc xã hội có tầng lớp chủ nô - nô lệ, địa chủ - người làm công...
dưới con mắt của những người thuộc tầng lớp giàu có, những người nghèo
khổ luôn bị coi là những kẻ lười biếng, thiếu hiểu biết...Một số tác giả
cho rằng, trong xã hội có sự bất bình đẳng xã hội, định kiến đựợc sử
dụng như một công cụ để chứng minh cho tính đúng đắn của người có tiền
bạc và có thế lực.
Cách đây bốn thập kỷ, nhà xã hội học Helen
Mayer Hacker (1951) đã phát biểu những người da đen và những người phụ
nữ là những người thuộc tầng lớp dưới. Họ có trí thông minh thấp, bằng
lòng với vai trò phụ thuộc. Người da đen phải ở những khu riêng biệt
giành riêng cho họ, còn chỗ của những người phụ nữ là ở trong nhà, là ở
chỗ bếp núc.
Ngày nay những quan điểm này đã thay đổi rất nhiều.
Chẳng hạn trong chiến tranh thế giới lần thứ II, người Nhật được gọi là
những kẻ ranh mãnh, quỷ quyệt, tàn ác... thì sau chiến tranh thế giới
II và cho tới tận ngày nay họ lại được coi là những người thông minh,
lanh lợi khiến cho mọi người trên toàn thế giới phải khâm phục bởi tinh
thần học hỏi, tinh thần vượt khó và đặc biệt là lòng tự hào dân tộc của
họ.
Định kiến xã hội bắt nguồn từ những biểu tượng xã hội.
Cuối
năm 1947, nhà tâm lý học da đen Mamie Clack đã tiến hành một nghiên cứu
khá thú vị về biểu tượng xã hội ở trẻ em da đen Mỹ. Ông đã nghiên cứu
trên số lượng lớn trẻ em da đen từ 3 đến 7 tuổi. Nội dung thực nghiệm
của ông như sau: Ông đưa ra hai loại búp bê da trắng và da đen. Ông yêu
cầu các em trả lời các câu hỏi: "Búp bê nào xấu nhất? Búp bê nào xinh
nhất? Búp bê nào đáng yêu? Búp bê nào ngoan? Búp bê nào em chọn làm bạn?
Búp bê nào màu đen?..." Kết quả thu được từ thực nghiệm này như sau:
90% số trẻ nhận dạng đúng màu của búp bê; Phần lớn số trẻ tham gia thực
nghiệm đều thích chơi với búp bê màu trắng và cho rằng búp bê màu trắng
tốt hơn búp bê màu đen, còn búp bê màu đen là xấu xí và độc ác; 2/3 trẻ
em da đen bị các búp bê da trắng cuốn hút. Qua đó ông đã rút ra một kết
luận rằng đây là một sự khinh miệt lạc hướng chống lại chính bản thân
mình. Đây là công trình nghiên cứu đầu tiên chứng minh sự giảm giá trị
hình ảnh bản thân như là hậu quả của sự phân biệt đối xử.
Xã hội hoá và sự xuất hiện định kiến
Định
kiến xuất hiện luôn gắn bó chặt chẽ với các hiện tượng xã hội hoá. Sự
phát triển định kiến xã hội đi đôi với sự phát triển của các thái độ xã
hội. Trước hết định kiến quy định bởi môi trường gia đình và đặc biệt
khuôn mẫu do cha mẹ tạo ra lúc đầu có vai trò như một hiểu biết quan
trọng nhất cho đứa trẻ. Thông qua cha mẹ và người lớn, đứa trẻ có xu
hướng lặp lại những gì mà cha mẹ và người lớn đã dạy dỗ nó. Đứa trẻ học
cách ứng xử xã hội bằng cách quan sát người khác và bắt chước họ.
Mối
quan hệ này được Adormo và các cộng sự làm sáng tỏ năm 1950. Đầu tiên
là sự nghiên cứu về chủ nghĩa bài Do Thái nhằm tìm hiểu xem có những
kiểu cá nhân đặc biệt bài Do Thái hay không. Các tác giả đã nhận thấy
rằng có một kiểu nhân cách độc đoán không chỉ là bài Do Thái, mà còn có
biểu lộ ra là hằn thù và bài trừ tất cả những nhóm dân tộc thiểu số
khác. Những nghiên cứu về nhân cách độc đoán đã cho phép xác định sự
xuất hiện của định kiến được bắt nguồn từ những năm đầu của cuộc đời.
Khi đó trẻ em học được ở người lớn những suy nghĩ, nhìn nhận và đánh giá
những người xung quanh. Trong chừng mực nào đấy, có thể nói những gì cá
nhân học được từ bố mẹ là những cơ sở cho sự đánh giá mang tính quyền
uy. Các yếu tố tiếp thu được từ gia đình đó có xu hướng trở nên bền vững
và được củng cố thêm trong quá trình xã hội hoá cá nhân.
3. Định kiến và một số vấn đề cần đặt ra
Một
vấn đề cần được đặt ra ở đây là có thể thay đổi được định kiến hay
không? Như trên chúng ta đã nhận định định kiến là một loại thái độ
(thái độ tiêu cực). Thái độ là một yếu tố động, hoàn toàn có thể thay
đổi được. Vì vậy định kiến cũng có thể thay đổi được. Tuy nhiên, định
kiến bao gồm hệ thống những thái độ tương đối bền vững, cho nên việc
thay đổi thái độ cũng là cả một quá trình. Chúng ta không thể mong muốn
thay đổi định kiến một cách nhanh chóng mà phải tác động dần dần từng
bước. Có thể nêu ra một số cách thức tác động nhằm thay đổi định kiến
như sau:
1. Thay đổi cách thức giáo dục trẻ
2. Loại bỏ một số chuẩn mực không phù hợp
3. Khắc phục hiện tượng bất bình đẳng xã hội.
4. Thay đổi một số chính sách ở cấp vĩ mô.
5. Tuyên truyền giáo dục những kiến thức và hiểu biết đúng đắn cho đông đảo quần chúng nhân dân.
*******************************************************
Trong
những năm gần đây, hình ảnh người đồng tính, đặc biệt là những người
đồng tính nam (gay) đã phần nào được xã hội nhìn nhận với cái nhìn thiện
cảm, trìu mến hơn vì những hành động đúng hướng của người trong cuộc...
...tuy
nhiên cũng phải thừa nhận một điều, tuy có ưu ái hơn xưa nhưng những
định kiến khắt khe và cái nhìn lệch lạc vẫn còn tồn tại trong phần lớn
cộng đồng và xã hội. Vậy thì nguyên nhân bắt nguồn từ đâu và vì đâu nên
nỗi???
Theo như truyền thống phương Đông từ thời phong kiến, đàn
ông tìm đến đàn bà là chuyện hiển nhiên và tất yếu trong xã hội, điều
này tạo ra sự hòa hợp, gắn kết khí âm và khí dương, thuận với quy luật
trời đất và tự nhiên; ngoài ra nó còn tạo ra sự đồng thuận và phát triển
cho xã hội loài người: duy trì nòi giống và tái tạo con người…
Chính
vì vậy, mọi hành vi đi ngược lại quy luật này đều sẽ gây ra phản ứng và
là “cú sốc” đe dọa sự tồn vong của xã hội loài người, do đó những hình
phạt cho những người “đi trái quy luật” rất dã man và khủng khiếp: bị xử
tử chặt đầu hay bị ném đá cho tới chết…, vì vậy những người trót mang
thân phận giới tính thứ ba luôn mang trong mình mặc cảm, nỗi sợ mơ hồ và
họ chưa bao giờ dám công khai thân phận của mình cũng như sống thật cho
bản thân mình mà chỉ biết tuân theo quy luật ngàn đời: lấy vợ - sinh
con, nhằm đổi lấy cuộc sống bình yên, hạnh phúc, dù chỉ là một hạnh phúc
mong manh, giả tạo…
Thời hiện đại, xã hội có cái nhìn thoáng
hơn, chính điều này đã tạo nhiều cơ hội, “đất diễn” cho người đồng tính
bộc lộ bản thân mình, phải thừa nhận một thực tế rằng rất nhiều người
đồng tính thật sự có tài năng, họ đã, đang làm việc và cống hiến hết sức
mình cho lý tưởng và công việc mà họ đeo đuổi. Tuy vậy một vài cánh én
không làm nên mùa xuân, song song những tấm gương “người tốt việc tốt”
đó là một bức tranh hỗn tạp về thực trạng của một bộ phận người đồng
tính…
Hàng ngày người ta vẫn nghe thấy nhan nhản đâu đó những
chuyện không hay về gay như: lừa tình lừa tiền, cướp của giết người, lối
sống thác loạn buông thả, mại dâm, … làm cho xã hội ngày càng có cái
nhìn không mấy thân thiện thậm chí là ác cảm đối với gay, đôi lúc người
ta còn đánh đồng: gay là tệ nạn…
Dẫu biết đó chỉ là thiểu số
trong một cộng đồng rộng lớn nhưng “con sâu làm rầu nồi canh” và cũng
không thể trách được dư luận xã hội khi mà trong chính bản thân mỗi
người đồng tính không tự xem xét nhìn lại mình và tự điều chỉnh hành vi
cho phù hợp với chuẩn mực đạo đức xã hội, bởi những gì mà truyền thông
phản ánh là có thật, những vụ án, những tình huống là có thật và những
tai tiếng ấy cũng là có thật…
Dân gian có câu “tiên trách kỷ, hậu
trách nhân” trước khi trách người nên nhìn lại mình, dẫu biết bàn tay
có ngón ngắn ngón dài, bên cạnh đại đa số gay sống lành mạnh và có ích
cho xã hội thì cũng còn một bộ phận nhỏ gây “tai tiếng” cho cộng đồng.
Vì vậy điều cần thiết nhất bây giờ, mỗi người đồng tính cần phải nâng
cao nhận thức và hành vi của mình đồng thời hỗ trợ nhau tuân thủ mọi quy
chuẩn xã hội và tuyên truyền phát huy lối sống lành mạnh, có ích cho
đời, cho gia đình và xã hội… Có như thế mới xây dựng được một hình ảnh
gay thân thiện, gần gũi trong cộng đồng và tiến tới xóa bỏ dần những kỳ
thị và những định kiến khắt khe tồn tại trong xã hội suốt một thời gian
dài vừa qua…